NƠI CÓ NGÔI Đ̀NH CŨgreenspun.com : LUSENET : Vietnamese American Society : One Thread |
NƠI CÓ NGÔI Đ̀NH CŨ
Lâm Chương
Tôi theo bọn thợ rừng, giạt về Tầm Lanh. Đi kiếm sống mà chui vào xó xỉnh nơi góc rừng này, không mong ǵ ngóc đầu lên nổi. Cái xóm đ́u hiu hẻo lánh đến năo ḷng. Thế nhưng tôi ở lại đă ba năm. Đời yên mà quạnh lắm. Nơi đây có chừng vài mươi mái nhà nằm đơn độc xa nhau, im ĺm vắng vẻ. Nghe nói, ngày trước Tầm Lanh cũng không đến nỗi tiêu điều đến thế, nhưng chiến tranh cứ đẩy con người bỏ xóm đi xa dần. Sau chiến tranh, chẳng ai c̣n nghĩ đến chuyện quay về chốn cũ, để chiều chiều ngồi bó gối, ngó lên ngọn rừng, nghe vượn hú.
Hồi tôi mới tới đây, Ba Canh nói: "Chú em đừng ngại, chuyện ǵ rồi cũng sẽ quen đi. Việc đo đạc, tính giá cả, chỉ cần biết bốn phép toán cộng trừ nhân chia là đủ. C̣n công việc sau đó, hơi vất vả một chút. Tôi sẽ chỉ cách cho chú em làm. Đóng cọc, vác củi sắp vào từng thước khối... Tiền bạc không có dư, nhưng cũng sống được qua ngày."
Thế đấy. Tiền bạc không có dư, nhưng cũng sống được qua ngày. Tôi phụ việc với Ba Canh, làm nơi băi đất ở cuối xóm, giáp với b́a rừng. Gỗ súc và củi từ trong rừng đem ra chất đống nơi đây, chờ chuyển đi các nơi xa.
Dân xe be, và bọn thợ rừng gọi băi này là Bến Củi.
Bến Củi nằm trong địa phận Tầm Lanh, nhưng trong những giao tiếp làm ăn, người ta quen nói Bến Củi. Càng về sau, nhắc đến Tầm Lanh không c̣n mấy người biết nữa. Mọi sinh hoat rộn rịp của Tầm Lanh, chỉ diễn ra nơi Bến Củi, chừng vài tiếng đồng hồ vào giữa trưa, khi bọn thợ từ rừng ra, lái gỗ từ các nơi tới. Lăng xăng đo đạc, trả giá. Xuống củi từ những xe ḅ xe trâu, hoặc cẩu những thanh gỗ súc lên xe be. Xong, họ chia tay. Bọn thợ xách cưa trở vô rừng. Và lái gỗ cùng những chiếc xe be rời Bến Củi bằng con đường đất ngoằn nghèo dài hun hun hút, dưới những tán lá rậm hai bên đường.
Tôi là kẻ thất cơ lỡ vận phải vào Tầm Lanh kiếm sống đă đành. Có một thành phần khác, không ai ngờ, cũng vào đây. Đó là những cô đă một thời đem thân xác ḿnh phục vụ cho khách mua hoa nơi các phố thị đông người.
Nay nhan sắc đă tàn phai, không c̣n đủ sức bon chen với đám đàn em mới vô nghề. Họ quay ra đón khách dọc đường, lưu động theo các chuyến xe chạy đường xa, có khi c̣n vào tận chốn rừng sâu với bọn thợ rừng. Mỗi lần nh́n thấy các cô em tóc tai rối bời gió bụi trên chuyến xe đi đến, hoặc mặt mũi bơ phờ từ rừng trở ta, ḷng tôi trắc ẩn. Có lẽ họ cũng nh́n thấy tôi là kẻ hết thời, không hơn ǵ "con vạc ăn sương" như họ. Cùng một ṇi lưu lạc, dễ thông cảm nhau, và từ đó sinh ra cảm t́nh.
Buổi trưa. Tôi ngồi trốn nắng dưới bóng cây. Một cô sà đến, ngồi kế bên, nói rất tự nhiên như đă quen thân tự kiếp nào: "Em đi lưu diễn nhiều nơi, Chưa thấy nơi nào buồn như nơi này."
Tôi cười v́ hai tiếng "lưu diễn", và lắc đầu nhẹ, tỏ ư chán đời, đồng cảm.
Tôi hỏi: "Em tên ǵ?"
"Kiều."
"Tên thật của em hả?"
"Không. Hồi em mới bước chân vô nghề, có thằng cha tự xưng thi sĩ, gọi em là Thúy Kiều. Nghe cái tên cũng hay hay, em xưng Thúy Kiều luôn. Không biết tại sao, khi em nói tên em là Thúy Kiều, có nhiều người cười.
Chắc họ biết tên giả. Em bỏ bớt chữ Thúy, chỉ c̣n Kiều. Em xài tên Kiều cho đến bây giờ."
"Sau này, nếu có ai c̣n cười nữa, em thêm chữ Giáng, thành Giáng Kiều. Người ta sẽ hết cười."
"Ừ, Giáng Kiều. Tên cũng đẹp."
Cô tḥ tay vào xú chiêng móc ra một gói thuốc Hoa Mai. Bao thuốc bèo nhèo, điếu thuốc cong queo. Cô châm lửa hút vài hơi rồi trao cho tôi
"Hút đi. Nh́n chi mà nh́n dữ vậy?"
Tôi nói: "Xú chiêng chứ đâu phải túi đựng đồ mà cho gói thuốc vào trong ấy."
"Em c̣n nhét cả tiền nữa. Thời quỷ vương, bọn cướp giựt đầy đường. Mang bóp đầm, đi ơng eọ, dễ làm mồi cho tụi nó lắm."
Tôi ngó vơ vẩn ra b́a rừng.
Cô nh́n tôi một lúc, lại nói: "Năm bảy năm về trước, cặp vú em no tṛn đầy đặn. Bao nhiêu thằng mê em, chỉ muốn vục mặt vào đó. C̣n bây giờ th́..." Cô bỏ lửng câu nói.
Tôi hỏi: "Bây giờ th́ sao?"
"Hỏi mỉa em hả?"
"Không. Anh đang nghĩ đến luật đào thải phũ phàng khắc nghiệt của tạo hoá."
Cô khoát tay: "Ối. Hơi đâu mà nghĩ luật này luật kia cho mệt. Em chỉ hận lũ đàn ông. Đàn ông là thứ mới chuộng cũ vong, là thứ phản bội, trời đánh thánh đâm."
Tôi kêu lên: "Trời đất! Có phải v́ nóng nực, làm em nổi giận bất thường? Em hận thằng nào th́ chửi thằng đó.
Sao bỗng dưng lại trút căm hờn vào anh?"
"Em không nói anh."
"Anh không phải đàn ông sao?"
"Đàn ông, nhưng em trừ anh ra." Cô cười. "Thôi, ḿnh lại quán uống nước đá đi anh. Em bao." Và đứng dậy, nắm tay tôi kéo đi.
Đang đi, cô hỏi: "Anh mấy tuổi?"
"Bốn mươi ba."
"Vợ con ra sao?" Cô liếc mắt, dí ngón tay vào trán tôi. "Đừng nói với em rằng anh c̣n độc thân nhe."
"Em điều tra giống như công an pḥng thẩm vấn."
"A a..., nhắc đến công an, em lại nổi sùng. Bọn nó ruồng bắt tụi em, đưa vào trại Phục Hồi Nhân Phẩm. Phục cái mả cha nó, chứ phục hồi ǵ. Đứa nào "thâm niên công vụ" như em, nó đẩy đi lao động, phơi nắng cháy da. Đứa nào c̣n trẻ đẹp, nó giữ lại, chơi ngày chơi đêm muốn ngất xỉu, kêu trời không thấu. Những thằng công an của trại Phục Hồi Nhân Phẩm, bản mặt thằng nào cũng tái mét xanh xao, mắt quầng thâm v́ chơi bời trác táng quá độ. Có thằng ghẻ lác đầy ḿnh, con vi trùng giang mai đă rúc vô tận xương tủy của nó rồi."
"Em hay bắt quàng, từ chuyện nọ xọ chuyện kia."
"Thôi, trở lại chuyện của anh. Vợ anh đâu?"
"Gửi cho bà già vợ nuôi. C̣n anh lo nuôi thân anh."
Cô ngó tôi, cười cười: "Hỏi thiệt nhe. Có thích em không?"
"Đừng hỏi tầm phào."
"Cái mặt làm bộ sầu đời, cách nói chuyện cà tững của anh, nhiều em gái ngây thơ chịu lắm. Tụi ḿnh kết duyên thành chồng vợ được đấy."
"Để ôm nhau chết đói hả?"
"Em t́nh nguyện đi làm nuôi anh."
"Đi khách đem tiền về nuôi anh?"
"Không. Em chán cái nghề này lắm rồi."
Chúng tôi ngồi dưới chái hiên quán Ba Canh. Chị Ba chủ quán mang nước đến, rồi bỏ đi ngay như muốn tránh mặt.
Cô Kiều nh́n theo sau lưng chị Ba, kề tai tôi, nói nhỏ: "Em c̣n lạ ǵ con đĩ ngựa này. Nó đỏng đảnh với mấy thằng xe be ngoài chợ, Ai chẳng biết,"
"Thôi. Chuyện người ta. Mắc mớ ǵ em."
"Hứ! Cái thứ rượn đực, c̣n làm ra vẻ khinh người. Khó ưa."
Cô nguưt dài. Đuôi mắt đă có dấu hiệu xếp nếp thời gian.
Tầm Lanh chỉ có một quán tạp hoá duy nhất của Ba Canh, nằm kế Bến Củi. Bên hông quán, che thêm cái chái dùng làm nơi bán thịt rừng, và nước đá giải khát buổi trưa cho những người sinh hoạt nơi Bến Củi. Ba Canh giao quán cho vợ con trông coi. C̣n anh, lo chạy ṿng ngoài. Vào rừng mua lại thịt tươi từ các tay săn bẫy thú, hoặc theo xe be ra chợ bổ thêm hàng hóa về cho vợ. Nhiều khi công việc bề bộn, vợ anh phải thay thế ra chợ bổ hàng.
Việc này cũng mất khá nhiều thời gian, phải ở lại qua đêm, hôm sau mới có chuyến xe vào lại Tầm Lanh. V́ phải ở lại qua đêm, nên chị Ba mang nhiều tai tiếng lăng nhăng với dân xe be và lái gổ. Người ta xầm x́ về chuyện này, nhưng Ba Canh không hề hay biết. Trời sanh ra anh để nh́n đời theo con đường thẳng, chứ không phải để nghi ngờ ḍ xét ở những khúc quanh.
Trời nắng loá. Trông ra Bến Củi, mặt đất dường bốc hơi thành gợn sóng. Những xe be đă bắt đầu rục rịch, chuẩn bị rời băi.
Cô Kiều nói: "Em phải về. Anh có muốn em ở lại không?"
"Anh không có tiền."
"Miễn phí cho anh."
"Anh trú miễu ở đ́nh. Làm bậy Quỷ Thần vật chết. Thôi, em về đi."
"Về lần này, có lẽ em không trở vô nữa. Em muốn đổi nghề, kiếm chuyện khác làm ăn."
"Ừ, được đấy. Em cũng lớn tuồi rồi. Phải nghĩ tới tương lai."
Cô than thở: "Em muốn về quê cũ, làm lại cuộc đời. Nhưng em hư quá, vô phương quay về."
"Th́ đi nơi khác. Buôn gánh bán bưng ǵ cũng được."
"Phải có một căn bản gia đ́nh, mà em th́ cô đơn, anh ạ." Cô thở dài. Tôi an ủi: "Từ từ, em cũng sẽ kiếm được người thương em."
Ngoài băi, có tiếng kêu ơi ới. Xe sắp rời Bến Củi.
Cô đứng dậy: "Em đi nhe. Chắc ḿnh không gặp nhau nữa đâu."
Cô bước đi xa, c̣n ngoảnh đầu ngó lại. Bỗng cô trở gót, quay vào cầm tay tôi: "Coi... ḱa..., cái mặt buồn buồn, dễ ghét. Bộ thương em hả?"
"Thôi mà, đừng có đùa. Bao nhiêu người ḍm ngó."
"Ḍm, kệ họ. Mai mốt có ra chợ, nhớ t́m em nhe?"
Tôi hối: "Được rồi. Em đi đi. Trễ chuyến xe bây giờ."
Cô lầm lũi đi nhanh ra Bến Củi, lên xe, đưa tay vẫy vẫy. Tôi trông theo, cảm thấy nao nao. Không biết ḷng ḿnh ra sao nữa.
Tôi ngồi lại với nỗi trống không, buồn vô cớ. Chị Ba bước ra hiên, dọn những ly tách trên bàn, nói: "Cặp kè với loại người ấy, chỉ mất mặt."
"Nói chuyện thôi. Đă có ǵ đâu?"
"C̣n muốn có ǵ nữa hả? Anh Ba Canh giúp anh có cơm để sống, chứ không phải để anh đem tiền bao gái."
"Chị thấy tôi có lạng quạng với ai không?"
"Chuyện khuất lấp ban đêm, chỉ có trời biết. C̣n chuyện ban ngày, đă rơ trắng đen. Bạ ai cũng tán tỉnh, thượng vàng hạ cám không chừa thứ nào."
Thái độ và lời lẽ của chị Ba làm tôi ngạc nhiên. Chị đâu có quyền nói những lời gay gắt như thế với tôi. Nghĩ tới t́nh nghĩa anh Ba Canh lâu nay, tôi không nỡ phản ứng làm mất ḷng người vợ của anh.
Tôi nói: "Chị hơi nặng lời đấy." Và bỏ đi ra băi.
Bến Củi không c̣n ai. Tôi một ḿnh vác củi chất vào từng thước khối theo những cây cọc, Ba Canh đă đóng sẵn từ trước. Hôm nay, anh theo xe ra chợ lấy hàng.
Tôi làm măi đến xế chiều. Khô cổ, khát nước, mồ hôi đầm lưng áo. Trời đứng gió, oi nồng. Muốn vào quán để uống ly nước đá, nhưng nghĩ lại thái độ khó chịu của chị Ba, tôi ngại. Tôi đi chếch về phía tây Bến Củi, nơi có ngôi đ́nh, lâu ngày không được trùng tu.
Hồi mới tới đây, trông thấy một bên hiên đ́nh quằn xuống sắp đổ. H́nh ảnh hư hao tàn tạ cuốn hút ḷng tôi. T́m ở đâu cho xa. Một nơi chốn mà người đời quên lăng, sẽ là nơi trú ngụ an toàn cho con chim tơi tả trước cơn dông thời cuộc. Mái đ́nh xưa, lợp ngói âm dương, phủ màu rêu xám. Cuối nóc đ́nh, chỗ giáp với đầu hồi, có gắn con hạc bằng đồng thau, xoăi cánh như đang cố sức một cách tuyệt vọng, chấp chới bay lên để thoát khỏi sự sụp đổ của thời gian, nhưng đôi chân tội nghiệp cứ dính chặc với ngôi đ́nh. Phía sau con hạc, cỏ dại và những cây con mọc đầy trên mái. Lớp lớp rêu cỏ, âm thầm nói lên biết bao điều ư nghĩa. Những ai hăm hỡ xẻ gỗ dựng đ́nh từ thế kỷ trước, đều khuất bóng cả rồi. Thần linh phiêu hốt nơi đâu, mà tượng gỗ xiêu xó nơi này. Dù không được trùng tu, nhưng số phận ngôi đ́nh vẫn c̣n may mắn. Nhờ vào vị thế địa dư hẻo lánh, và không có tiếng tăm linh hiển vang xa, nên ngôi đ́nh thoát được cái hoạ san bằng, bởi chiến dịch triệt hạ những đ́nh chùa lăng miếu, quét sạch nền văn hoá cũ của bao đời cha ông để lại.
-- Kẻ Sĩ Bắc Hà (ke_si_bac_ha@yahoo.com), October 06, 2004
Đă bao nhiêu đêm, tôi nằm trăn trở dưới mái hậu liêu, sau đ́nh. Nghe chim đớp muỗi vỗ cánh chạm xạc xào trong khóm lá ngoài kia. Nghe tiếng dơi chí choé cắn nhau giành chỗ đậu, dưới mái ngói bên hàng hiên sắp đổ. Thấm thía nhứt là tiếng vạc kêu sương, rớt xuống tự trên lưng chừng trời. Dường như trong tịch mịch lặng im, tiếng vạc lẻ loi, làm tôi thấy rơ hơn về nỗi quạnh hiu của ḷng ḿnh. Những đêm trăng tỏ, tôi thường đứng trông ra Bến Củi.
Những khối củi mập mờ nh́n từ xa, giống như những chiếc xe tăng đang lổn nhổn tiến về phía b́a rừng. Bồi hồi nhớ lại thời c̣n chiến tranh. Một binh lực hùng mạnh là thế, bỗng một ngày tán loạn ră tan. Chuyện vô lư, tưởng chừng như cơn mơ. Đến khi lủ khủ dắt nhau vào tù, mới bừng ra sự thật. Từ ấy trở đi, lư lịch tôi mang một dấu ấn lớn, không mong ǵ xoá được để làm lại cuộc đời. Tôi về Tầm Lanh như người xưa bất đắc chí, quay về sằn dă.
Ẩn nhẫn mà sống. Nhưng, sao bất cứ nơi nào, tôi cũng thấy bi đát. Hoàn cảnh một cô Kiều trưa nay, cũng làm tôi suy nghĩ. Tôi có hơn ǵ cô đâu. Đời đă lâm vào thế bí. Trở lui không được, tiến tới không xong...
Đêm đă khuya. Sương xuống lạnh màu trăng. H́nh như có tiếng chân ai dẵm lên những phiến lá khô ngoài sân đ́nh. Tôi nhỏm dậy. Một người vừa bước đến bên thềm hậu liêu.
Tôi ngạc nhiên: "Chị Ba. Có ǵ gấp mà giờ này ra đây?"
"Cũng có chút việc." Chị nói nhỏ giọng.
"Tôi có thể giúp chị không?" Vừa hỏi, tôi vừa vén tấm mùng, vắt lên nóc.
Chị e dè ngồi xuống mép giường: "Anh có giận tôi không?"
"Giận chuyện ǵ?"
"Hồi trưa, tôi lỡ lời."
"Không đâu. Chị nói cũng đúng. Tôi hay rà rê với mấy cô ấy."
"Tôi biết anh làm thế, v́ buồn."
"Vâng. Tán gẫu cho qua ngày."
"Nhưng anh phải lựa người chứ."
"Có tính chuyện lâu dài đâu mà chọn lựa?"
"Giữa ban ngày, kề vai bá cổ với gái điếm, không sợ người ta cười sao?"
"Cái thân cùng đinh mạt kiếp như tôi, c̣n sợ ai cười nữa?"
"Thấy chướng quá, tôi có nói nặng lời. Anh buồn không?"
"Tôi buồn, nhưng không phải buồn chị"
Chị ngó tôi, cười cười: "Buồn ai?"
"Buồn v́... buồn. Thế thôi." Tôi ngập ngừng lúng túng. Cảm giác có điều ǵ bất thường.
"Buồn v́ cô đơn hả?" Con mắt chị liếc nhẹ, gợi t́nh th́ thôi.
Dưới ánh trăng khuya nghiêng rọi vào hậu liêu, nét mặt chị Ba có sức quyến rũ lạ lùng. Mùi xà bông chanh trên tóc, mùi đàn bà quyện vào nhau thoang thoảng. Những đêm nằm một ḿnh dười mái hậu liêu, tôi thèm được ôm một người đàn bà. Nhưng, chưa bao giờ tôi nghĩ người ấy là chị Ba.
""Nói đi. Có phải buồn v́ cô đơn?" Chị lẵng lơ nh́n tôi, và đưa tay vén mớ tóc giạt qua một bên cổ. Bộ ngực vun đầy của chị phập phồng dưới lớp áo mỏng.
Tôi chống đỡ sự quyến rũ một cách yếu ớt: "Chị Ba ơi..., c̣n anh Ba Canh."
Nói thế, nhưng h́nh ảnh Ba Canh đă mờ nhạt trong trí tôi rồi.
Chị nói: "Ảnh đi ra chợ. Anh cũng biết mà."
Hơi hướm từ cổ chị Ba phả vào mũi tôi, cám dỗ. Và tôi cũng nghe rơ cả hơi thở hồi hộp của ḿnh nữa.
Có tiếng dơi kêu chí choé bên kia hàng hiên. Bỗng dưng, tôi cảm tưởng như tất cả những bức tượng ngả nghiêng đóng bụi trong đ́nh, đều chỗi dậy. Quỷ Thần kéo nhau ra hậu liêu, đứng nh́n chị Ba và tôi. Tôi chợt nhớ lại ngày c̣n bé, đọc chuyện Một Vị Quan Thanh Liêm đời xưa, trong sách Giáo Khoa Thư: Có người mang của hối lộ đến.
Vị quan từ chối. Người ấy nói: "Xin quan cứ nhận. Chuyện này không ai biết." Vị quan nói: "Sao lại không? Ông biết. Tôi biết. Quỷ Thần Trời Đất biết." Chuyện của Chị Ba và tôi đêm nay, dù anh Ba Canh không biết, nhưng chị Ba biết, tôi biết, và Quỷ Thần Trời Đất biết.
Ngọn đèn lương tâm leo lét sắp tắt rồi. Tôi cố lấy lại b́nh tĩnh, bước xuống giường, ra đứng ngoài hiên, lơ lăng nh́n trăng.
Tôi gọi, vừa tha thiết, vừa khước từ: "Chị Ba ơi... Về đi. Lỡ có người trông thấy th́... chết."
Chị ngỡ ngàng, ngồi sững lâu lắm. Tội nghiệp chị. Tôi muốn quay lại ôm lấy cái thân thể chín muồi dục vọng, ngả trên mặt giường, âu yếm. Đời có ra sao th́ ra. Bất ngờ chị nói: "Thôi, tôi về. Đă theo tán tỉnh mấy con đĩ, c̣n lên mặt đạo đức làm cao."
Câu nói như một gáo nước lạnh dội xối vào mặt tôi, bừng tĩnh.
Chị thay đổi nhanh vô cùng. Mặt lạnh băng, vùng vằng bỏ đi. Không biết nghĩ sao, chị dừng lại, ngập ngừng:
"Anh hứa không nói với ai?" "Vâng. Tôi hứa."
Chị quay lưng. Thấp thoáng dưới trăng, bóng chị Ba mờ khuất ngoài Bến Củi.
Tôi nằm thức suốt đêm. Thầm tiếc dịp may, nhưng cảm thấy yên ḷng. Ngày mai, nh́n lại anh Ba Canh mà không hề thấy ngượng.
B́nh minh lên. Quạ kêu trên đầu cây sao già. Tiếng quạ kêu nghe thảm. Trong tiếng quạ sáng nay, dường như có thêm một điều ǵ thảng thốt. Có lẽ, hồn tôi bắt đầu nhuốm bệnh?
Mọi sinh hoạt của Tầm Lanh, Bến Củi vẫn b́nh thường. Chị Ba đối với tôi, cũng b́nh thường. Nhiều khi tôi tự hỏi, chị có c̣n nhớ ǵ trong đêm ấy không? Khó mà biết được ư nghĩ của chị. Trong cái đầu của mỗi người đàn bà, có cả một kho tàng bí mật.
Anh Ba Canh bao giờ cũng tử tế. Ḷng anh đơn giản. Anh tưởng ḷng người cũng đơn giản như anh. Anh thường khuyên tôi, nên t́m một người đàn bà goá, để gán ghép hai cuộc đời cô đơn làm một. V́ quá thật thà, anh đâu biết rằng có những cặp vợ chồng đang sống trên lưỡi dao cạo. Đến một ngày nào đó, hiểu ra th́ con tim đă bị cứa nát rồi. Chừng nào anh Ba Canh mới thấu được ḷng dạ chị Ba? Lúc ấy, liệu anh làm sao với con tim chảy máu của ḿnh?
Ba năm tôi ở Tầm Lanh. Kẻ lạ chợt đến chợt đi. T́nh người dưng nước lă. Tôi nương tựa vào gia đ́nh Ba Canh, và coi đây là chỗ thân t́nh duy nhất. Đứa con gái lớn của anh, tên Mận, học hành dang dở. Tôi đến chơi, thường vẫn dạy thêm cho Mận về văn học, sử kư, địa dư, khoa học thường thức. Năm mười lăm tuổi, Mận nghĩ chuyện ǵ ở trên đời, tôi cũng thông suốt.
Có lần, Mận hỏi: "Chú ơi, muối lấy từ đâu?"
Tôi nói: "Từ trong nước biển."
"Tại sao nước biển có muối nhỉ?"
"V́ nước biển mặn."
"Tại sao nước biển mặn?"
"V́ nước biển có muối."
Cái kiểu trả lời theo chu kỳ ṿng tṛn của tôi, làm hai chú cháu cười ngất.
Năm mười sáu tuổi, Mận nói: "Chú ngon hơn ông Nguyễn Công Trứ."
Tôi hỏi: "Tại sao?"
"Ông Nguyễn Công Trứ đang làm quan, bị hất xuống làm lính, vẫn chạy theo sau chiếc xe công danh réo gọi ơi ới, để leo lên nữa. C̣n chú, nghe ba cháu nói, cũng đang làm quan ǵ đó, rồi bị đi tù, trở về đi vác củi, chứ không thèm chạy theo cách mạng."
"Hoàn cảnh mỗi thời mỗi khác. Không so sánh thế được đâu. Cháu đừng nhắc chuyện cũ, để chú được yên thân làm nghề vác củi."
Năm mười bảy tuổi, Mận nói: "Chú ơi, chú giống ông Trần Tế Xương."
Tôi hỏi: "Ổng là thi sĩ. Chú là tiều phu. Sao lại giống nhau được?"
Mận lật quyển sách, đọc:
Một trà, một rượu, một đàn bà
Ba thứ lăng nhăng nó quấy ta
Chừa được thứ nào hay thứ ấy
Có chăng, chừa rượu với chừa trà.
Rồi ngước lên nh́n tôi: "Chú cũng vậy. Không chừa được đàn bà."
"Đàn bà đâu? Chú đang sống một ḿnh mà."
"Hừm... Cháu thấy mấy cô làm... điếm, bu vào chú nói chuyện hoài."
"Ừ, th́ nói chuyện cho... vui."
"Không được. Chú phải chừa cái thứ ba luôn."
Tôi kêu: "Trời ơi. Chú đâu phải thầy tu mà chịu đủ thứ điều răn, giới luật?"
Mận khẳng định: "Người tốt không giao thiệp với người xấu."
Trong mắt Mận, tôi là người tốt. Mận không muốn tôi lân la gần gũi những người mà Mận cho rằng xấu. Mận đâu biết trên cơi đời ô trọc này, không thể nh́n bề ngoài con người mà tỏ được vàng thau. Mận thừa hưởng tấm nhan sắc tương đối mặn mà của mẹ, c̣n tính nết ra sao, chỉ có trời biết.
Một chiều, nghỉ việc sớm. Tôi thơ thẩn trên sân đ́nh. Mận đến, nói: "Má cháu bảo đem biếu chú trái dưa hấu đầu mùa." Và đặt trái dưa xuống bậc thềm.
Tôi nói: "Tránh chỗ đó. Coi chừng mái hiên sập xuống bất cứ lúc nào."
Chúng tôi ṿng ra đứng trước tiền đ́nh, cửa chính. Mận nh́n cánh cửa, mối mọt hư hao: "Cái đ́nh này, ghê quá."
"Cháu có vào bên trong bao giờ chưa?"
"Hồi nhỏ, cháu thường vào mỗi khi có dịp cúng đ́nh. Nghe nói Thần đ́nh được sắc phong của vua. Sắc đựng trong cái hộp gỗ, để bên cạnh bức tượng."
"Ḿnh vào coi thử đi."
Tôi mở cửa chính điện. Bụi thời gian lả tả, rơi đầy trên tóc trên vai. Mùi cứt dơi xông nồng lên mũi. Nền đ́nh lót gạch Tàu, bản lớn. Dấu chân chúng tôi in trên màu bụi xám. Ánh sáng bên ngoài hắt qua cửa chính mờ mờ, đủ nh́n thấy bàn thờ, và bức tượng. Hai tấm liễn màu đỏ rủ xuống hai bên, viết bằng Hán tự. Bụi phủ, nhện giăng. Tượng Thần không lớn mà uy nghiêm. Hộp đựng sắc vua phong làm bằng gỗ mun, được che bởi miếng vải lụa điều. Tôi giở miếng vải lụa. Trên nắp hộp có khắc h́nh một con rồng khảm xa cừ.
Tôi toan mở, Mận ngăn: "Không được."
Tôi quay lại nh́n: "Sao không?."
"Chẳng phải ai cũng có thể mở hộp ra coi được đâu."
"Vậy, ai có thể mở?"
"Cháu nghe nói, chỉ những vị chức sắc phải làm lễ xin phép Thần, trước khi mở hộp."
"Những vị chức sắc, bây giờ ở đâu?"
"Không biết." Mận đứng nép vào tôi, ngó dáo dác chung quanh. "Ḿnh đi ra, chú. Vào đây, cháu thấy sờ sợ."
V́ tôn trọng tín ngưỡng và tập tục lễ nghi của ngưới đời trước, tôi không mở hộp để coi sắc phong thần vua ban,
Tôi nói: "Mai cháu đem cây chổi cho chú mượn. Chú muốn quét dọn bên trong ngôi đ́nh."
"Không. Đừng động đến mọi vật bên trong."
Chúng tôi ra tới cửa chính. Bất ngờ, thấy chị Ba đứng sẵn nơi tiền đ́nh.
Tôi gọi: "Chị Ba." Như thay thế một lời chào.
Mặt chị có vẻ khác thường: "Các người làm ǵ trong ấy?"
Mận nói: "Chú định coi sắc vua."
"Hừ... Sắc vua?" Chị nắm tay Mận lôi về. Không thèm ngó đến tôi.
Tôi gặp lại Ba Canh ngoài băi, hôm sau. Anh không nói ǵ. Thái độ rất lạnh.
Không chịu nổi sự im lặng của anh, tôi lên tiếng hỏi: "Chị Ba có nói với anh điều ǵ về tôi?"
Anh ngừng tay làm việc, rút thuốc ra hút, và đứng suy nghĩ. Măi lâu sau, anh nói: "Tôi quư chú em, coi như người nhà. Không ngờ, chú tệ quá." Anh thở dài.
"Nhưng chị nói những ǵ?"
"Những ǵ, chú cũng biết rồi. Con Mận c̣n khờ. Chú là người hiểu biết. Miếu đ́nh là chốn linh thiêng. Sao lại đem nhau vào trong ấy làm... bậy? Không sợ Quỷ Thần quở phạt?"
"Có phải chị Ba thêu dệt chuyện này?"
"Ai dám thêu dệt chuyện động trời như thế."
"Anh chị đă hỏi kỹ lại con Mận chưa?"
"Nó chối. Khóc kêu oan. Làm sao nó có thể nhận một hành động tồi bại?"
Tôi gắt: "Anh cũng tin lời chị sao?"
"Không tin vợ th́ tin ai?" Nếu vợ tôi không bắt gặp tại trận, chỉ nghe lời đồn, th́ cũng khó tin được."
"Bắt gặp tại trận thế nào?"
"Chú là người trong cuộc, chú biết rơ hơn ai hết. Tôi không nói là v́ c̣n nể mặt nhau."
Tôi muốn đấm ngực, than trời. Mận khóc, kêu oan. C̣n tôi, kêu với ai? Đính chính thế nào?
"Bây giờ anh tính sao?" Tôi hỏi.
"Chuyện xảy ra quá đột ngột, tôi chưa biết đường nào giải quyết. Đàn bà nhiều khi sáng suốt hơn ḿnh. Vợ tôi nói, không nên làm ồn lên vụ này, v́ danh dự của chú và con Mận. Nó phải giữ danh giá để mai kia c̣n lấy chồng nữa. Chú nên rời khỏi Tầm Lanh, cắt đứt ngay mối t́nh vụng trộm này."
Cái câu, chú nên rời khỏi Tầm Lanh, làm tôi hiểu rơ ư định của chị Ba. Chị không hiểu lầm. Chỉ v́ không muốn tôi c̣n lảng vảng quanh đây, sợ một lúc nào đó, tôi sẽ tiết lộ cái đêm trăng cũ, có lần chị đến mái lậu liêu. Nếu lần ấy, tôi đồng t́nh với chị, th́ hai người cùng giữ bí mật. Và chị cũng không cần phải dựng đứng lên một điều không có thật giữa tôi và Mận. Bây giờ, dù tôi có vạch rơ âm mưu của chị Ba, th́ anh Ba Canh cũng sẽ cho rằng tôi đặt điều bêu xấu vợ anh, để chạy tội cho ḿnh.
Tôi nói: "Anh Ba, mai tôi rời Tầm Lanh theo ư của chị. Xin anh nhắn với chị rằng, v́ muốn bảo vệ danh giá của ḿnh, chị đă vu oan cho tôi và con Mận."
"Vu oan? Tôi không nghĩ thế. Và cũng không hiểu chú muốn nói cái ǵ?"
"Hiểu sao được, khi anh đang sống ngọt ngào trên lưỡi dao cạo? Tôi và con Mận đă bị đứt tay rồi. Không biết chừng nào tới anh?"
Trên chuyến xe rời Bến Củi, tôi thấy Mận đứng dưới mái hiên, ngùi trông theo. Chẳng biết Mận có khóc hay không. Bóng xế hắt hiu trên đầu cây sao già. Ngôi đ́nh vẫn im ĺm như ngày tôi mới đến. Ba năm. Cây rừng Tầm Lanh mọc rễ trong tôi. Tôi nhổ gốc ra đi. Không có ai vẫy tay làm đưa tiễn.
Lâm Chương
-- Kẻ Sĩ Bắc Hà (ke_si_bac_ha@yahoo.com), October 06, 2004.
CAU CHUYEN NHE NHANG ..nhung lam cho toi phai ngâ`n ngu*` ddê? tro* ve voi hien tai ... cam o*n
-- BACLIEU 2002 ( paltalk) (thomasph75@hotmail.com), October 06, 2004.
Em xin chào anh Kẻ Sỹ Bắc Hà !Nếu có dịp gặp anh Ham Học Hỏi th́ cho em gởi lời xin lổi v́ có những lời nói làm anh ấy không vừa ḷng , và em rất mong anh ấy tiếp tục tham gia diễn đàn này .
Cảm ơn bác nhiều .
-- NguyễnLậtĐổĐộcTài , đang sống trong ách độc tài cộng sản tại Việt nam . (độctàicộngsảnsẻchết@mộtngàygần.đây), October 06, 2004.